 |
05 tháng 12, 2009 |
Đức Phật trả lời dân Kalama - trích từ
Kalama Sutta/tiếng
Pali
(tiếng Phạn Nam)
Ma anussavena
: không nên tin những gì dù đã truyền đạt qua bao nhiêu đời (tạm dịch)....
Ma Pitakasampadanena
: không nên tin những gì dù đã được ghi nhận trong sách vở trước đây (tạm
dịch)....v.v…
Lời đức Phật trích từ Madhyamaka (Trung Luận) qua tiếng Pali (Malayasian)
- Taapaac chedaac ca nikasat svarnam iva panditaih; Pariiksya bhiksavo
graahyam madvaco na tu gauravaat : người khôn thử vàng (thật hay giả)
bằng cách đốt, cắt hay chà (mài) - Này tỳ kheo - chỉ nên tin những lời này
sau khi đã thử chúng chứ không chỉ vì tôn trọng (tạm dịch).
(¬ tiếp bài trước)
B
ài viết
'Bụt hay Phật? (phần 1)' ghi lại hiện tượng dùng Bụt hay Phật một cách
tổng quát, và chứng minh rằng Bụt chính là âm cổ của Phật còn duy trì trong
ngôn ngữ dân gian của chúng ta.
Phần 2 đi vào chi tiết cho thấy khả năng từ đơn tiết Bụt có thể từ
phương Nam (Việt Hán) nhập vào tiếng Hán, sau đó trở thành Phật và từ Hán
Việt/HV này nhập ngược lại tiếng Việt thời Đường Tống cũng như đa số các từ
HV khác. Hiện tượng nhập ngược này có thể giải thích được phần nào qua các
hoạt động dịch kinh Phật và sự hiện diện của các tăng sĩ Thiên Trúc (‘Hồ’)
tại Giao Chỉ vào thời bình minh của đạo Phật ở Đông Nam Á. Phần này bổ túc
cho phần 2 (gọi là phần 2A) cung cấp thêm các dữ kiện ngôn ngữ và nêu ra các
vết tích của dạng Bụt hay *buot/buoc trong tiếng Việt và láng giềng, hi vọng
thấy rõ thêm nguồn gốc phương Nam của từ đơn tiết Phật. Âm
buộc của phất không phải là gượng ép mà thành vì chính học giả Hứa Thận
thời Đông Hán cũng đã gợi ý này về chữ phất
弗 :
8318
臣鉉等曰:韋所以束枉戾也 (Thần huyễn đẳng viết : vi sở dĩ thúc uổng lệ dã) - để ý
thúc
là buộc lại
Có nhiều cách hiểu về ghi nhận trên của Hứa Thận: hoặc dựa vào chữ
vi (trái ngược) để dẫn đến một nghĩa rất trừu tượng là nghịch - ngược -
không (chẳng) hay trái ý (phất ý, phật ý, phật lòng, mất lòng); Hoặc dựa vào
chữ thúc để dẫn đến nghĩa cụ thể là bó (hai 'thanh cây' lại) hay buộc; Đây
là một hoạt động rất căn bản và thực tế trong xã hội nông nghiệp truyền
thống, thể hiện rất rõ nét khi nhìn nguồn gốc và cấu trúc của chữ phất 弗 . Tính
chất cụ thể còn thể hiện qua cách dùng
bốc
như lửa bốc lên, mùi bốc ra ... so với
phất
trong cách dùng cờ phất lên, làm ăn đã phất ... (Việt Nam Tự Điển,
1954). Phần này sẽ không đề cập tới những lấn cấn như cách dùng Khổng Tử,
Lão Tử so với Phật Tử, hay các từ đa tiết và đơn tiết của các ngôn ngữ Trung
Á so với tiếng Việt: đây là những đề tài liên hệ nhưng cần tìm hiểu thêm để
nhận ra chính xác hơn quá trình hình thành hiện tượng Bụt và Phật. Người
viết sẽ tránh dùng các thuật ngữ Ngôn Ngữ Học, Phật Học ... để người đọc dễ
cảm nhận phần này hơn, các chi tiết về tài liệu tham khảo được liệt kê để
các bạn có thể tra cứu thêm. Thanh điệu của một âm được ghi bằng số hay mẫu
tự (như F là Falling tone) và đứng sau chữ đó , so với cách ghi thanh điệu
tiếng Việt hay phiên âm (bính âm, pinyin) giọng Bắc Kinh/BK bây giờ. Các dữ
kiện như tiếng Thái, Lào, Hán Việt ... sẽ không có trích dẫn nguồn (vì rất
dễ kiểm tra lại) so với những bài viết hay tài liệu ngôn ngữ đặc biệt hơn.
Không nên lẫn lộn số phụ chú đứng sau một chữ với cách ghi thanh điệu trong
bài.
1. Giới thiệu tổng quát.
Các tài liệu về quá trình truyền bá đạo Phật1 ở Giao Chỉ
cần được tra cứu thêm để hỗ trợ cho những dữ kiện ngôn ngữ, tuy nhiên nhiều
tác giả đã viết về chủ đề này rồi và không cần phải nhắc lại ở đây. Đương
nhiên là các dữ kiện khảo cổ (bia Võ Cảnh, di tích Phật ở Óc Eo ...), lịch
sử, tôn giáo ... phải ăn khớp với dữ kiện ngôn ngữ để tăng mức chính xác.
Trọng tâm của loạt bài 'Bụt hay Phật?' là giới thiệu các cách nhìn khác hơn
như từ lăng kính Ngữ Âm Học Lịch Sử và cấu trúc chữ Hán, hi vọng soi sáng
được phần nào thời kỳ phôi thai của đạo Phật ở Đông Nam Á. Hãy xem lại cấu
trúc của chữ Phật
佛 : gồm có bộ nhân
人 hợp với chữ phất
弗. Chữ phất
弗được dùng làm thành phần
hài thanh rất thường gặp trong quá trình cấu tạo chữ Hán. Có khoảng 55 chữ
Hán có cấu trúc là các bộ thủ và chữ phất弗 (dựa vào Khang Hy). Tự
điển Hán Việt có khoảng 10 chữ (dựa vào tự điển Thiều Chửu). Tuy nhiên hiện
nay chỉ có khoảng vài chữ còn thông dụng như Phật
佛, phí
費 hay
费 (phung phí), phất
沸 (phí - nước sôi), phất
拂 (bật, phật - quét, trái) và các
chữ này không có dạng giản thể. Ngày nay có các cách đọc (theo pinyin, giọng
Bắc Kinh) khác nhau như sau với âm phất (fu)
vẫn chiếm đa số hay là hơn 50%
nguồn
http://chinese-characters.org/contained/5/5F17.html
Trong các chữ Hán dùng chữ phất, chữ Phật佛rất
thường gặp với tần số dùng là 108885 trên 434717750 so với
费 phí là 75589 trên 369369126, sau
đó là phất (quét, trái) với tần số dùng là 8247 trên 434717750 so với phất
(phí - nước sôi) là 5436 trên 434717750 - dữ kiện trích từ tự điển trên mạng
http://www.chineselanguage.org/dictionaries/ccdict/ . Sau đây là các
nghĩa và cách dùng của chữ phất:
1.1 Động từ
Nắn cho thẳng (Thuyết Văn : kiểu dã,
說文 :
矯也)
Trái lệnh (vi ảo :
違拗)
Không muốn (như phất thanh
違拗, không muốn nói ...)
1.2 Tính từ
Sôi (cũng như phí
沸)
Uất ức (cũnh như
怫 phật)
Không, chẳng (phủ định, như
不 phi, cùng một gốc)
1.3 Danh từ
Bút (cây viết, cũng
như
筆 bút)
Phất/Phật Lăng (bây giờ thường thấy dùng Pháp Lang
法
郎 ở TQ hơn)
Phiên âm tiếng nước ngoài, tên riêng như
弗雷 Freyr (vị thánh trong thần thoại
Norse),
西弗 Sievert (Sv, đơn vị phóng xạ),
氟 (chất Flourine, ký hiệu F)
斯坦弗 (si1tănfú, phiên âm Stanford)
...v.v... Dùng chữ phất để ký âm là khuynh hướng thường gặp hiện nay.
Đáng chú ý nhất là âm BÚT vẫn còn duy trì trong tiếng Việt2,
các cách đọc khác của BÚT là
粵語:bat1 Việt Ngữ :bat1
(Quảng Đông) so với bǐ,
giọng Bắc Kinh/BK bây giờ
客家話:[客英字典]
bit7 [沙頭角腔]
bit7 [寶安腔]
bit7 [台灣四縣腔]
bit7 [梅縣腔]
bit7 [海陸豐腔]
bit7 [東莞腔]
bit7 [陸豐腔]
bit7 [客語拼音字彙]
bid5
Khách Gia thoại :[ Khách Anh tự điển ] bit7 [ sa đầu giác khang ]
bit7 [ Bảo An khang ] bit7 [Đài Loan tứ huyền khang ] bit7 [ Mai Huyền khang
] bit7 [ Hải Lục phong khang ] bit7 [Đông Hoàn khang ] bit7 [ Lục Phong
khang ] bit7 [ Khách ngữ bính âm tự vị ] bid5 - so với phil (tiếng Hàn),
fude (tiếng Nhật/kun) và hitsu (hầu hoá phụ âm môi đầu thành h, tiếng
Nhật/on)
Bảng so sánh cho thấy tiếng Việt còn duy trì một âm thượng cổ của
phất弗là BỤT
so với Phật佛là
BỤT, nhưng chiều ảnh hưởng là từ Hán sang Việt hay Việt sang Hán? Bài
viết phần 2 đã đưa ra khả năng ký âm BUỘC (ràng buộc) của chữ Phật, phần này
sẽ trình bày thêm một số dữ kiện ngôn ngữ phản ánh dạng *BUOC là từ phương
Nam chứ không phải có nguồn gốc là tiếng Hán (Cổ).
2. Các dạng ký âm phương Nam của tiếng Hán (Cổ)
Trong vốn từ Hán Cổ có các chữ có thể là ký âm của tiếng phương Nam
(Việt Cổ) nhưng vì không hợp với hệ thống âm thanh của nhóm cai trị phương
Bắc, vô tình hay cố ý, nên từ từ bị đào thải; Thí dụ như tên 12 con giáp
chẳng hạn (Tý, Sửu ... Hợi), chúng không có liên hệ gì đến tên gọi 12 con
vật trong tiếng Hán nhưng lại rất tương ứng với tên gọi 12 con vật trong
tiếng Việt (nhánh Việt-Mường). Ta hãy khảo sát liên hệ của chữ Hán (Cổ) hiếm
với tiếng Việt về dạng *BUOC
2.1 Chữ rất
hiếm phật
䞞 viết bằng bộ tẩu hợp với chữ phất nghĩa là đi bộ, bước đi, nhảy ...
Trích Khang Hy :
䞞 [廣韻】符弗切【集韻】符勿切,音佛。【玉篇】走貌。【類篇】跳也。 又【集韻】芳未切,音費。義同
Phật [Quảng Vận ] phù phất
thiết [ Tập Vận ] phù vật thiết , âm phật . [ Ngọc Thiên ] tẩu mạo . [ Loại thiên ] khiêu dã . Hựu [ Tập Vận ]
phương vị thiết , âm phí . Nghĩa đồng
So dạng bước với các ngôn ngữ láng giềng ta có bươk (tiếng Aslian),
pươk/pauk (Brou), prơk (Todrah), bôk (Bahnar), pước (Mường Bi)... Do đó ta
có thể phục nguyên một dạng âm cổ là *BUOC cho chữ phật
䞞 này. Dạng này rất phù hợp với
dạng phục nguyên *BUOC hay *BUOT/BUT của Phật đã ghi nhận ở phần 2 của loạt
bài 'Bụt hay Phật?' (tóm tắt là佛hàm
ý con người từ lúc sinh ra
人bị ràng buộc弗 - vừa ký âm bụt và vừa gợi
ý giải thoát …). Chữ Nôm bước dùng bộ túc hợp với chữ bắc hài thanh
足北 như trong
'... Quét trúc bước qua lòng suối ...'
(Nguyễn Trãi, 8b)
'... Chân chẳng bước đến thành chợ ...'
(Truyền Kỳ Mạn Lục, II, 37a)
…v.v…
Âm HV bắc
北 có dạng âm cổ hơn là *pơk tương
ứng với dạng *BUOC. Tiếng Mường Bi còn dùng pước môch (bước một),
thàng nì nả mởi ti ản mẩy pước thơi (thằng bé này chỉ mới đi được mấy
bước thôi). Trong vốn từ Hán có chữ hiếm bát
㞈 (Tập Vận : bắc mạt thiết, âm bát - [集韻]:
北末切,音撥) nghĩa là cẳng
(chân) lớn, bước đi ... Mà giọng Quảng Đông là but6, but3 cũng là dấu vết
của các dạng ký âm (dùng các chữ khác nhau) của cùng một gốc.
2.2 Một chữ
hiếm nữa là
䢌 bát (giọng Quảng Đông là
but3) với thành
phần hài thanh
巿 (đọc như phất):
䢌 bó BK but3 QĐ
廣韻】【集韻】北末切,音撥。【玉篇】急走也。【集韻】前頓也。又【集韻】普活切,音鏺。【廣雅】猝也。又蒲撥切,音跋。義同。又【說文】行貌。或作䟛 [Quảng vận ] [ Tập Vận
] bắc mạt thiết , âm bát . [ Ngọc Thiên ] cấp tẩu dã . [ Tập
Vận ] tiền đốn dã . Hựu [ Tập Vận ] phổ hoạt thiết , âm bát . [ Quảng Nhã ]
thốt dã . Hựu bồ bát thiết , âm bạt . Nghĩa đồng . Hựu [ thuyết văn ] hành
mạo . Hoặc tác bát ... Chữ này có nghĩa là đi bộ, bước đi, chạy ... Có thể
là vết tích của âm cổ *BUOC (bước) cũng như chữ hiếm
䟛 cùng có thành phần hài thanh là巿 (trích Khang Hy) - so với
bạt
跋 ...
䟛 bó bá BK bat8 QĐ
廣韻】【集韻】蒲撥切,音跋。【玉篇】急行貌。【類篇】行貌。一曰猝也。或作。 又【廣韻】方味切【集韻】方未切,音沸。義同。又【集韻】博蓋切,音貝。與䟺同。步行躐跋也
[Quảng Vận ] [ Tập Vận ] bồ bát thiết , âm bạt . [ Ngọc Thiên ]
cấp hành mạo . [ Loại Thiên ] hành mạo . Nhất viết thốt dã . Hoặc tác bát.
Hựu [ Quảng Vận ] phương vị thiết [ Tập Vận ] phương vị thiết , âm phí .
Nghĩa đồng . Hựu [ tập vận ] bác cái thiết , âm bối . Dữ bối đồng . Bộ hành
liệp bạt dã
2.3 Một chữ
hiếm khác là phất
柫 cũng có thành phần hài thanh là phất, theo Thuyết Văn Giải Tự
3678
柫,[敷勿切
],擊禾連枷也。從木弗聲
3678 Phật/phất ,[ phu vật
thiết ] , kích hòa liên gia dã . Tòng mộc phất thanh
Phất
柫 nghĩa là một loại chày giã gạo (danh từ) hay đánh (kích, động từ)
mà tiếng Việt còn có dạng vụt như các cách dùng vụt gậy vào lưng, vụt roi
... So sánh với chữ bột
浡 cũng là vút. Theo thiển ý VỤT tượng thanh có thể là một biến âm của
BỤT (như vua-bua...).
2.4 Chữ hiếm
phật
viết bằng bộ cân nghĩa là khăn
buộc tóc đáng chú ý - trích Khang Hy
[廣韻】【集韻】敷勿切。音拂。【玉篇】韜髮也
[Quảng Vận ] [ Tập Vận ] phu
vật thiết . Âm phất . [
Ngọc Thiên ] thao phát dã
Nếu phất mang nghĩa là không (phủ định) hay uất ức, bật (vụt, vọt)
lên … thì không có nghĩa, chỉ có ý nghĩa khi phất là ký âm buộc (âm cổ hơn)
của phương Nam : khăn buộc tóc tương ứng với định nghĩa của Ngọc Thiên.
2.5
Alexandre de Rhodes trong tự điển Việt Bồ La/VBL (1651) từng nhận ra rằng
"... THÍC CA (Thích
Ca) .... khi ông bỏ bà vợ sau một ít năm chung sống, rồi ông tự trở thành
BỤT
tức là tượng thần ..."
VBL dùng từ BỤT 5
lần so với 1 lần dùng từ Phật. Một nhận xét khá thú vị là sau VBL khoảng 4
thế kỷ, lật một tự điển Việt (2009) ra xem thì thấy chữ Phật dùng 5 lần so
với chữ Bụt dùng 1 lần - tỷ số
Bụt:Phật
đảo ngược lại (không kể các thành ngữ ca dao). Ngày nay ít nghe thấy trong
khẩu ngữ từ Bụt mà chỉ còn vết tích trong vài tiếng địa phương hay ca dao
tục ngữ. Trước VBL 4 thế kỷ, Cư Trần Lạc (vua Trần Nhân Tông) dùng từ BỤT 10
lần so với 1 lần dùng từ Phật (nhưng chỉ dùng từ kép Phật Tổ
佛祖), Đắc Thú
Lâm Tuyền Thành Đạo dùng từ BỤT 2 lần (không dùng Phật), Vịnh Chùa Hoa Yên
dùng từ BỤT 3 lần và 1 lần dùng Phật (từ kép Phật quả
佛果), Phú Dạy
Con/Mạc Đĩnh Chi dùng từ BỤT 4 lần (không dùng Phật). Chữ Bụt trong các tài
liệu chữ Nôm dùng chữ Hán bột (sao chổi)
孛 hay bộ nhân hợp với
chữ bột
侼, bộ mộc hợp
với chữ bột
桲 ... Các
dạng này vẫn duy trì âm cổ của Phật là bột/ Bụt4. Cho đến năm nay
(2009), người viết có dịp xem qua một cuốn tự điển tiếng Việt thì thấy dùng
5 lần từ Phật so với 1 lần Bụt (tỷ số 5:1 ngược lại với 1:5 trong VBL).
Khuynh hướng trên
cho thấy rõ ràng từ BỤT đã được dùng trước thời Trần và chữ Phật đã từ từ
thâm nhập vào tiếng Việt (cũng như đa số các từ Hán Việt khác) và chiếm ưu
thế cũng như đa số các từ HV khác.
2.6
Một âm trung cổ của phất là phí
費 phản ánh qua từ phí
HV (hao, tổn - Ngọc Thiên). Chữ này gồm có bộ bối (chỉ nghĩa, tiêu dùng) và
âm
弗 - theo Thuyết Văn
Giải Tự :
費 :
財用也。从貝弗聲
(3955)
Phí : Tán tài dụng
dã . Tòng bối phất thanh
Rõ ràng là phất còn
có một cách đọc khác5 hơn là phí, thuộc dạng *phi (hay * phǝć)
có nguồn gốc phương Bắc (liên hệ đến phi/bất
不). Thời Đông
Hán các chữ Phật, phất và phí đọc giống nhau. Phí là từ Hán Việt (gốc
Hán phương Bắc nhập vào tiếng Việt), tương phản với dạng *but của phất
弗 đến từ phương Nam
(từ Việt Hán, gốc Việt nhập vào tiếng Hán cũng như tên gọi 12 con
giáp chỉ thú vật).
Các dữ kiên ngôn ngữ
trên đều nói lên những hoạt động cụ thể như buộc (lúa, rạ), bước, vụt ...
Phản ánh tư duy nông nghiệp phương Nam và rất khác biệt với cách diễn dịch
trừu tượng của phương Bắc. Bụt là từ phương Nam thể hiện rõ nét qua các tài
liệu bằng chữ Nôm trong giai đoạn phôi thai: tổng kết các dữ kiện từ phần
1,2 và 2A lại và so sánh với lý luận của học giả Quý Tiễn Lâm6
dựa vào một số dạng but, pwt, bud … của các ngôn ngữ Trung Á, ta thấy nguồn
gốc phương Nam *BUT của từ Phật có cơ sở vững chắc; Nhất là khi nhận ra
tương quan của dạng *BUOC/*BUOT (ràng buộc, như trong cụm từ Tam Phọc - Tam
Căn/Độc là cội rễ ràng buộc của phiền não/Nhất Đề) và nguồn gốc cấu tạo chữ
phất弗.

Các con đường truyền bá của Phật
giáo
(trích từ vi.wkipedia)
3. Các cách diễn dịch khác nhau của chữ Phật
Nếu không dựa vào chức năng hài thanh của chữ Hán3 như
đã bàn bên trên, ta có thể suy diễn nghĩa của chữ Phật bằng nhiều cách và có
khi cho ra những kết luận ngược với nhau hay những lấn cấn khó hiểu:
3.1 Theo
truyền thuyết thì ngài Huyền Trang7 giải thích chữ Phật
佛gồm bộ nhân人hợp
với chữ phất弗 (phất có một nghĩa là
chẳng, không) hàm ý Phật Tổ là người giác ngộ, hay hiểu được Tánh Không
(Phật Tánh) - một khái niệm cơ bản của đạo Phật. Nhưng nếu xem chữ phí hay
phất
沸 và dựa vào nghĩa của phất (không)
thì chữ này hàm ý không có nước (bộ thuỷ) hay khô cạn ... Suy diễn như vậy
là sai vì chữ phất ở đây là hài thanh, tượng thanh : hàm ý âm thanh của bọt
nước sôi lên, hay vọt ra. Tương tự như vậy, hãy xem chữ hiếm phất
viết bằng bộ phong hợp với chữ
phất : nếu suy diễn dựa vào nghĩa của phất (không) thì chữ này hàm ý không
gió, tạnh gió ... Thật ra nghĩa của chữ này lại là gió thoảng (gió phớt/phất
qua - light breeze) như ghi nhận của [Ngọc Thiên] phất : phong dã [玉篇]
:
風也 hay trước nữa ở
[Tiểu Nhã]: phiêu phong phất phất [小雅]:飄風弗弗.
3.2 Một cao
đệ của ngài Huyền Trang là Khuy Cơ, trong sách Ðại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương (q. 6), còn nhận xét rằng 'Phạn văn
Bột Ðà, ngọa lược vân Phật'! Thật ra dạng Bụt biến thành Phật là chẳng
có sai gì cả - đây chỉ là biến âm tự nhiên của tiếng nói theo dòng thời
gian/lịch đại; Trong ngữ hệ Ấn Âu biến âm b > ph chính là một phần của định
luật âm thanh Grimm : đây là chủ đề của bài 1 "Bụt hay Phật?". Thường thì
rất khó nhận ra các dạng âm cổ vì sự khác biệt quá lớn của âm thanh qua một
thời gian dài, nhất là các dữ kiện ngôn ngữ lại không được dồi dào (dễ kiểm
tra lại) như ngày nay và không kể đến tâm lý tự tôn hay tự ti của con người.
3.3 Những
cách lý giải khác từ góc độ văn hoá 'truyền thống' Trung Quốc/TQ như 3.1 Bộ
nhân và chữ phất (không) : (Phật) không phải là người thường, cũng hàm ý đắc
đạo (giác ngộ)8 ...
弗即“不是” ...
不是凡人,也不是常人,更不是俗人 ...
phất tức "bất thị" ... bất thị phàm nhân, dã bất thị thường nhân,
canh bất thị tục nhân ...
3.4 Một ‘đỉnh
cao' của khả năng diễn dịch (và ‘xoá’ hẳn cấu trúc hài thanh hay chức năng
ký âm của chữ Phật
佛) là chữ Phật gồm có các
chữ cung
弓 (xuyên qua, bao quát)
các chữ
丿(nét viết về phía trái, biểu tượng cho phái tà) và
丨(nét viết thẳng đứng,
biểu tượng cho phái chánh) - hàm ý khắc phục các gian nan dù là người tà hay
chánh để trở thành người giác ngộ hay Phật … Xem thêm các tài liệu gần đây
về những trao đổi giữa học giả nổi tiếng của TQ, Lý Thổ Sanh
李土生và cố học giả Quý Tiện/
Tiễn Lâm
季羨林, về cách giải thích này (phương thức tượng tư duy)9.
Tóm lại, ta có cơ sở để nêu lên khả năng từ đơn tiết Bụt (âm cổ của
Phật) có thể nhập vào tiếng Hán từ phương Nam; Giọng Quảng Đông cũng có âm
Bụt (but6), như bột
脖 (cái cổ) bánh bột
餑 ... Nhưng để chỉ cái bát (chén/trản HV), gốc tiếng Phạn
patra
पात्र, giọng Quảng Đông10
cũng là but6, but3 so với tiếng Việt bát gần với âm Phạn nguyên thuỷ hơn
cũng như là Bụt so với Buddha
बुद्ध
: Bụt và bát là các dạng đơn âm hoá cho hợp với hệ thống âm thanh tiếng
Việt. Thành ra nguồn gốc 'phương Nam' là gần với tiếng Việt hơn cả.
4. Phụ chú và phê bình thêm.
Để cho liên
tục, người đọc nên tham khảo các bài viết 'Bụt hay Phật?' phần 1 và 2 - như
trên mạng
http://www.khoahoc.net/baivo/nguyencungthong/270809-buthayphat-1.htm,
http://www.khoahoc.net/baivo/nguyencungthong/170909-buthayphat-2.htm, hay
http://dongtac.net/spip.php?article3034 ,
http://dongtac.net/spip.php?article3081 …v.v…
Hay tra cứu thêm bài viết của các tác giả khác như Nguyễn Trọng
Phu, Phan Mạnh Lương, Huỳnh Ngọc Chiến ... Hay các diễn đàn, bài báo - xin
được liệt kê ở đây để người đọc tiện tra cứu thêm:
- "Từ Buddha đến Bụt và Phật" tác giả Huỳnh Ngọc Chiến hay xem trên
mạng
http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=2621
- "Bụt hay Phật" tác giả Phạm Mạnh Lương - Tạp Chí "Thế kỷ 21" số
129 (1/2000) hay xem trên mạng
http://www.thuvienhoasen.org/ddpp-buthayphat.htm
- "Bụt hay Phật" tác giả Nguyễn Trọng Phu - Tạp Chí "Thế kỷ 21" số
123 (7/1999)
- "Danh Từ Bụt" - Sư Cô Chơn Không (Lá Thư Làng Mai Số 25
12/2/2002) - đăng trên mạng Thư Viện Phật Giáo Hoa Sen
http://www.thuvienhoasen.org/ddpp-buthayphat-02.htm
- Hoa vô ưu (tập 9) "Ông Phật hay ông Bụt" (Hoà Thượng Thích Thanh
Từ, 2002) hay xem trên mạng
http://www.thuong-chieu.org/uni/KinhSachThiKe/PhoThong/HoaVoUu9/Html/04.htm
- "Phật" trên mạng vi.wikipedia địa chỉ
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%ADt
- Các lời bàn về “Lý do vì sao không sửa chữ PHẬT thành BỤT” hay
xem trên mạng Đặc Trưng
http://dactrung.net/phorum/tm.aspx?m=424540&mpage=1&key=񧩜
- Bài viết về "Phật hay Bụt" xem trên mạng
http://profiles.yahoo.com/blog/5PQLDPGDVHLTTJJIRWUT72RUDY?eid=.oHZLcBgnnuYZ1ctEYXMLXZhV-GGloWTFdQ7DqMD3iAQdAPg9mg
- Vài ý kiến của tác giả Lê Anh Minh và Huệ Thiên đăng trên báo
(23/7/2007)
http://www.sggp.org.vn/saigonthubay/2007/7/111914/
- Ý kiến của các bạn đọc về cách gọi Bụt hay Phật (cách đây 8 năm)
trên mạng
http://giaodiemonline.com/thuvien/doithoai/ykienbandoc-buthayphat.htm
- Các trao đổi trên diễn đàn Viện Việt Học
http://www.viethoc.org/phorum/read.php?15,43638,43771,quote=1
…v.v…
1) xem lịch
sử truyền bá đạo Phật ở Việt Nam trên mạng
http://www.daophatngaynay.com/english/vietnam/country/005-VietnameseBuddhism.htm; Học giả Lê Mạnh Thát cũng đề nghị Phật giáo đã đến Việt Nam khoảng thế kỷ
thứ III hay thế kỷ thứ II trước công nguyên - xem thêm tài liệu trên mạng
http://www.thuvienhoasen.org/u-lspgvn1.htm ; Tác giả Nguyễn Lang thì cho
rằng khoảng đầu công nguyên thì Phật giáo đến Việt Nam (trung tâm Luy Lâu) -
xem chi tiết trên mạng
http://www.thuvienhoasen.org/vnphatgiaosuluan1-01.htm,
http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_%C4%91%E1%BA%A1o_Ph%E1%BA%ADt_Vi%E1%BB%87t_Nam,
"Lịch sử Phật giáo Việt Nam" Nguyễn Tài Thư (Chủ biên) - NXB Khoa Học Xã Hội
(Hà Nội, 1991), hay "Phật Giáo tại Việt Nam" tác giả Thích Nguyên Tạng trên
mạng
http://www.daophatngaynay.com/viet/pgvn/su/001-pgvn1.htm hay tác giả
Thích Mật Thể
http://www.tangthuphathoc.com/suphatgiao/lichsuphatgiaovn-01.htm , hay
bài viết của tác giả Quang Lâm (2009) trên mạng
Phật giáo bắt đầu truyền bá vào Việt Nam
như thế nào? ...v.v...
2) tiếng Hàn
còn có dạng put (chỉ cây viết lông hay cọ sơn, vẽ) so với dạng phil. Tuy
nhiên buộc là mukta (tiếng Hàn) lại khác hẳn. Một điểm quan trọng là Hứa
Thận (trong Thuyết Văn Giải Tự/TVGT, khoảng 100 SCN) đã ghi nhận các nhận
xét về cách dùng chữ bút như sau
1930
聿部:
聿:所以書也。楚謂之聿,吳謂之不律,燕謂之弗。從一聲。凡聿之屬皆從聿
1930 Duật bộ : duật : sở dĩ
thư dã . Sở vị chi duật ,
Ngô vị chi bất luật , Yến vị chi phất . Tòng niếp nhất thanh . Phàm duật chi
thuộc giai tòng duật
Như vậy là vào thời Hán, có nhiều cách đọc (và cách viết) chữ BÚT聿 tuỳ theo địa phương so với dạng筆bây
giờ. Thật ra
筆âm Hán trung cổ
là [廣韻】鄙密切【韻會】逼密切【正韻】壁吉切,音必
[Quảng Vận ] bỉ mật thiết
[ Vận Hội ] bức mật thiết [ Chánh Vận ] bích cát thiết , âm tất ... Theo hệ
thống âm thanh Hán Việt (âm Hán trung cổ); Nhưng tiếng Việt vẫn giữ dạng
BÚT. An Nam Dịch Ngữ phiên âm bút và vuốt (*BUOT) bằng âm HV bác
剝 (bō BK, *pok, bóc).
3) Thuyết Văn
Giải Tự (khoảng 100 SCN) có 82% thành phần hài thanh, so với Từ điển Khang
Hy (1716) có khoảng 97% (có tài liệu đề nghị 90%) thành phần hài thanh; Vốn
từ hài thanh càng ngày càng tăng trong các tự điển TQ gần đây, nhất là với
các dạng giản thể - trích từ cuốn "The Chinese Language: Fact and Fantasy"
(University of Hawai’i Press, 1984) của GS John DeFrancis:
Principle
(cấu trúc)
|
Oracle Bones
(Shang Dynasty)
Giáp văn (nhà Thương)
|
Xu Shen (2nd century)
Hứa Thận (TK 2) |
Zheng Qiao (12th century) Trịnh Tiều
(TK 12) |
Kang Xi (18th century) Khang Hy (TK 18)
|
Pictographic (tượng hình)
|
227 (23%) |
364 (4%) |
608 (3%) |
|
Simple indicative (chỉ sự đơn)
|
20 (2%) |
125 (1%) |
107 (1%) |
|
Compound
indicative (chỉ sự phức)
|
396 (41%) |
1,167 (13%) |
740 (3%) |
|
Semantic-phonetic (hài thanh)
|
334 (34%) |
7,697 (82%) |
21,810 (93%) |
47,141 (97%) |
Total (tổng số chữ)
|
977 |
9,353 |
23,265 |
48,641 |
4) Bột
孛là âm Hán trung cổ (còn duy trì qua âm HV và Quảng Đông but6) có thể
đọc là phất
茀 (phu vật thiết, theo Khang Hy). Giọng Bắc Kinh bây giờ là bèi hay
bó (pinyin). Bột nghĩa là sao chổi, nóng (bừng) mặt ... Nhưng còn một nghĩa
rất xưa là những gì nghiền hay tán nhỏ thành như bột gạo, bột nếp ... phản
ánh qua tục ngữ "có bột mới gột nên hồ" ... Tiếng Trung (Quốc) hiện nay dùng
các từ như phấn
粉, đan
丹, sa
沙 ... để chỉ bột chứ không còn dùng từ bột này nữa. Trong vốn từ Hán
có chữ bột
viết bằng bộ mễ :
[集韻】薄沒切,音孛。屑米也
Bột [Tập Vận ] bạc một thiết
, âm bột . Tiết mễ dã (gạo xay, nhỏ hạt)
So sánh với các ngôn ngữ
láng giềng bột (bôt, Mường Bi), pu-ột (Nùng), h-poh, h-boh, b-bôt (Môn), bột
(Lào), bột (Thái -
ผัด phatL : nghiền nhỏ, tra phấn). Chữ hiếm bột
餑 trong vốn từ Hán , tần số dùng là 15 trên 171894734, có nghĩa là
bánh (bánh bột) mà giọng Quảng Đông là but3, giọng Hẹ là p'ut8 cũng cho thấy
nguồn gốc phương Nam của bột (Bụt).
5) Theo tự điển tầm
nguyên trên mạng
http://starling.rinet.ru/cgi-bin/response.cgi?single=1&basename=\data\china\big-china&text_recno=2779&root=config
do cố GS người Nga Sergio Starostin khởi xướng (1998). Tiếc rằng ông là
một nhà ngôn ngữ học đầu tiên đề nghị Bụt là dạng mượn cổ hơn (older
loanword, tiếng Hán Cổ) so với Phật mà không phân tách cặn kẽ các dạng khác
như bút (viết)
筆, hay nghiên cứu sâu xa hơn về cấu trúc cổ đại (triện văn, kim văn,
giáp văn) của chữ phất
弗 ... Mà chỉ so sánh sơ lược vỏ ngữ âm rồi đi đến kết luận như trên
(rất dễ kết luận như vậy khi so sánh tiếng Hán và tiếng Việt). Các nhà ngôn
ngữ (Hán học) khác như GS Axel Schuessler (“ABC Etymological Dictionary of
Old Chinese” 2007), William Baxter (*pjut, 1992), E. G. Pulleyblank (EMC,
1991), W. South Coblin (ONWC), E. Pulleyblank, B. Karkgren ... đều khá nhất
trí với dạng cổ *but (*put) của Phật nhưng không đi đến kết luận như
Starostin.
6) Xem thêm toàn văn
bài viết "Phù Đồ dữ Phật"
浮屠与佛 của học giả Quý Tiện/Tiễn Lâm
季羨林 trên mạng
新浪文化讀書書 >
散文隨筆 >
季羨林佛學硏究經典:佛 >
浮屠與佛 Tân lãng văn hóa độc thư > tản văn tùy bút > Quý Tiện Lâm Phật
học nghiên cứu kinh điển : Phật > Phù Đồ dữ Phật
http://vip.book.sina.com.cn/book/chapter_60473_42199.html
7) cách giải thích
của ngài Huyền Trang được đăng trên trang mạng Thư Viện Hoa Sen, và tác giả
Phan Mạnh Lương nhắc lại trong bài viết 'Bụt hay Phật?'. Người viết vẫn còn
tra cứu thêm về nguồn gốc chính xác của cách lý giải này. Một điều cần nhắc
ở đây là ngài Huyền Trang/HT không phải là người đầu tiên sáng tác ra chữ
Phật
佛 như một số tác giả đã lầm tưởng! Ngài HT đã phát triển khái niệm
‘Phật’ và đóng góp rất lớn vào công trình phiên dịch kinh Phật từ tiếng
Phạn. Thời HT có nhiều trường phái và tranh cãi lẫn nhau về giáo lý của đức
Phật, dựa vào một số kinh đã dịch từ trước, trong đó có thể một số đã xuất
phát từ Giao Chỉ phản ánh qua âm BỤT chẳng hạn. Một trường hợp đáng chú ý là
khả năng ký âm (chỉ là gần đúng) của tiếng Hán, như phất
弗 dùng để ghi âm Phạn Sariputra
शारिपुत्र (Phạn Nam/Pali là Sariputta,
Phất/putra nghĩa tiếng Phạn là con trai) Xá Lị Phất
舍利弗 cũng như Buddha
बुद्ध là Phật Đà
佛陀. Xá Lị Phất còn là Xá Lị Phất Đa hay cách dịch mới (đơn âm hoá
putra) là Xá Lị Phất Đa La, Xá Lị Bổ Đát La ... Ngài HT thì dịch (ý và âm)
là Xá Lị Tử
舍利子, điều này nói lên phần nào các lấn cấn trong dạng phất hay Phật
đã dùng trước thời HT. Các cách dịch khác là Thu Lộ Tử
鶖鹭子 hay
秋露子, Thân Tử
身子 (dạng xưa hơn) … vì khả năng tiếng Phạn rút gọn Sari- có nhiều
nghĩa khác nhau. nếu rút gọn của sarira
शरीर,
cách dịch mới là Thiết Lị La/Thất Li La ..., là xương và tro thân cốt của
Phật (sau khi hoả táng) hay tinh tuý của các bậc chân tu. Nếu là viết tắt
của sarika शारिका, thì có nghĩa là một loại chim két
ở Ấn Độ (có khả năng nói, hùng biện nên còn gọi là Bách Thiệt/trăm lưỡi) còn
Thu Lộ là phiên âm gần đúng của Sari-. Lại có cách giải thích chim sarika là
loài bồ nông Ấn Độ có cặp mắt rất tinh ... Đây cũng chính là tên mẹ của ngài
Xá Lị Phất nên theo Pháp Hoa Huyền Tán thì ngài đã có tài biện luận từ mẹ
vậy. Phạm trù nghĩa của Xá Lị đã không rõ ràng ngay cả trong tiếng Phạn, do
đó khi phiên âm (âm dịch) và phiên nghĩa (ý dịch) thì khả năng diễn đạt
chính xác rất khó đạt được. Một liên hệ khá dễ nhận ra khi phân tách các
cách ký âm tiếng Phạn bằng chữ Hán trên là dạng
*BUT (trong tiếng Phạn Sariputra) là âm cổ hơn của phất, tương ứng với
BỤT (trong tiếng Phạn
Buddha) là âm cổ hơn của
Phật. Nếu dùng tử
子thay cho phất弗như
ngài HT thì liên hệ này khó phát hiện hơn.
8) Cách giải thích
Phật thường gặp trong các tài liệu TQ:
將“佛”字解構,人弗也。“弗”是象形字,按其甲骨文字形看,中僩像兩個不平直之物,上以繩索束縛,使之平直。其本義爲“矯枉”,《說文》徐灝注:“弗……凡弛弓,則以兩弓相背而縛之,以正枉戾,所謂矯也。”爲人要做到矯枉而不過正,使理智、情感和能力都同時達到最圓滿境地,所以,“佛”就是覺者,覺悟的人,是大智、大悲與大能的人。…v.v…
Tương " Phật " tự giải cấu ,
nhân phất dã . " Phất " thị tượng hình tự , án kỳ giáp cốt văn tự hình khán
, trung gian tượng lưỡng cá bất bình trực chi vật , thượng dĩ thằng tác thúc
phược , sử chi bình trực . Kỳ bổn nghĩa vi " kiểu uổng " , " Thuyết Văn " Từ
Hạo chú : " phất ... phàm thỉ cung , tắc dĩ lưỡng cung tương bội nhi phược
chi , dĩ chánh uổng lệ , sở vị kiểu dã . " Vi nhân yếu tố đáo kiểu uổng nhi
bất quá chánh , sử lý trí , tình cảm hòa năng lực đô đồng thời đạt đáo tối
viên mãn cảnh địa , sở dĩ , " Phật " tựu thị giác giả , giác ngộ đích nhân ,
thị đại trí , đại bi dữ đại năng đích nhân …v.v…
9) xem chi tiết trên
mạng
http://www.dyrb.com.cn/Article/hmzk/fczg/200907/24392.html hay http://www.sinology.cn-/wkgx/thread-178840-1-1.html
…v.v…
10) Thí dụ như trong
vốn từ Hán có chữ bát
撥 bō fā giọng BK, but6 but2 put3 but3 giọng Quảng Đông - một dạng âm
thượng cổ là *puat (so với *buot/buoc) nhưng nghĩa lại trái ngược với nghĩa
phương Nam : phát ra, gẫy (chiết) ... so với buộc lại, giữ lại ... Đây là
hàm ý sâu sắc của chữ Phật (bộ nhân và âm buộc - cùng gợi ý ràng buộc/tam
phọc).
粵語::
Việt ngữ :but6 put3 (giọng
Quảng Đông)
客家話:[梅縣腔]
bat8 bat7 [台灣四縣腔]
pat7 bat7 [客英字典]
pat7 [陸豐腔]
pat7 [東莞腔]
pat7 [寶安腔]
pat7 | pat8 [客語拼音字彙]
bad5 [海陸豐腔]
pat7 bat7
Khách Gia thoại :[ Mai huyền
khang ] bat8 bat7 [Đài Loan tứ huyền khang ] pat7 bat7 [ Khách anh tự điển ]
pat7 [ Lục phong khang ] pat7 [Đông Hoàn khang ] pat7 [ Bảo An khang ] pat7
| pat8 [ Khách ngữ bính âm tự vị ] bad5 [ Hải lục phong khang ] pat7 bat7
Trích từ
http://www.zdic.net/zd/zi/ZdicE6Zdic92ZdicA5.htm
Điều này hỗ trợ cho dạng Bụt
(Phật) qua trung gian tiếng Việt (Nam) chứ không phải từ tiếng Việt Quảng
Đông!
Nguyễn Cung Thông
nguyencungthong@yahoo.com
Các bài khác trong đề tài nghiên cứu về chữ cổ Việt Nam:
- Một văn bản chữ cổ của người Pà Thẻn (Trần Vân Hạc)
- Chữ Viết Khoa Đẩu Duy Nhất Trên Đá Cổ Sa Pa (Trần Vân Hạc)
- Người Lắng Thầm Tìm Con Chữ Việt Cổ (Trần Vân Hạc)
- Vài nét về tiến trình của chữ Quốc ngữ (Trần Vân Hạc)
- Công Trình Chữ Việt Cổ Của Giáo Sư Lê Trọng Khánh (Trần Vân Hạc)
Những bài nghiên cứu cùng tác giả:
BỤT HAY PHẬT ? phần 2A (Nguyễn Cung Thông)
BỤT HAY PHẬT? phần 1 (Nguyễn Cung Thông)
Bụt hay Phật ? phần 3 (Nguyễn Cung Thông)
Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp (Nguyễn Cung Thông)
Tản mạn về cõi Đâu Suất và lý thuyết tương đối -1 (Nguyễn Cung Thông)
Tứ Diệu Đế (Nguyễn Cung Thông)